Chi tiết bài viết
Chi tiết bài viết

Đường chân trời đã mất - Chương 2-2

Đường chân trời đã mất - Chương 2-2 “Ôi, Chúa ơi!” Mallison phẫn nộ kêu lên, còn Barnard thì cười và nói: “Tôi đoán anh nhất định là hướng dân viên du lịch của nhà nước trong chuyến hành trình này, Conway, tôi thừa nhận bây giờ chỉ cần có một chai Brandy, tôi mới không để ý đến là Tây Tạng hay là Tennessee.” “Nhưng cuối cùng chúng ta phải đối phó với sự việc này thế nào đây?” Mallison lại sốt ruột thúc giục. “Tại sao chúng ta lại ở đây? Mục đích

chuong 2-2 photo Chuong2-2_zpsfd18d729.jpg

“Ôi, Chúa ơi!” Mallison phẫn nộ kêu lên, còn Barnard thì cười và nói: “Tôi đoán anh nhất định là hướng dân viên du lịch của nhà nước trong chuyến hành trình này, Conway, tôi thừa nhận bây giờ chỉ cần có một chai Brandy, tôi mới không để ý đến là Tây Tạng hay là Tennessee.”

“Nhưng cuối cùng chúng ta phải đối phó với sự việc này thế nào đây?” Mallison lại sốt ruột thúc giục. “Tại sao chúng ta lại ở đây? Mục đích của toàn bộ sự việc này cuối cùng là gì? Tôi không hiểu sao các anh còn có thể lấy chuyện này ra để đùa cợt được chứ?”

“Được rồi, chàng trai, việc này còn tốt hơn là cãi nhau. Hơn nữa, giả dụ cái gã kia điên thật, thì làm theo lời anh nói cũng chả có ý nghĩa gì”.

“Hắn chắc chắn bị điên. Ngoài ra, tôi không nghĩ ra được cách giải thích nào khác. Cậu có thể không, Conway?”

Conway lắc đầu.

Cô Brinklow quay người lại, hình như cô toàn cất lời vào những lúc mọi người ngừng tranh luận. “Do các anh không hỏi ý kiến của tôi, cũng có thể tôi không nên nói điều gì”, cô bắt đầu bằng câu nói rất khiêm tốn, “Nhưng tôi vẫn muốn nói tôi đồng ý với cách nhìn của Ngài Mallison. Tôi tin rằng đầu óc cái gã bỉ ổi kia chắc chắn có vấn đề.

Người tôi nói đến tất nhiên là cái gã lái máy bay kia. Nếu hắn không bị điên, cho dù thế nào hắn cũng không có lý do để làm thế này”. Cô gái nói thêm, âm thanh tự tin lớn đến nỗi át cả tiếng động cơ ồn ào xung quanh, “Hơn nữa, các anh biết không? Đây là lần đầu tiên trong đời tôi đi máy bay! Trước đây cho dù thế nào tôi cũng không làm thế này, cho dù một người bạn của tôi đã từng cố gắng khuyên tôi đi máy bay từ London đi Paris.”

“Còn bây giờ cô lại đang bay từ Ấn Độ đến Tây Tạng”, Barnard nói, “Sự việc luôn như vậy, không dịch chuyển theo ý muốn của con người”.

Cô Brinklow tiếp tục: “Tôi từng quen một giáo sĩ truyền giáo đã đi Tây Tạng. Ông kể rằng người Tây Tạng là một dân tộc rất kỳ lạ. Họ cho rằng chúng ta do khỉ biến thành”.

“Họ rất thông minh”.

“Ồ, không, bạn thân mến, điều tôi nói chỉ là suy nghĩ theo phương pháp hiện đại. Họ luôn có một thứ tín ngưỡng hàng trăm năm nay, đó chỉ là một sự mê tín trong tín ngưỡng đó của họ. Đương nhiên, cá nhân tôi rất phản đối sự mê tín đó, nhưng tôi cho rằng Darwin khác với những người Tạng kia. Tôi vẫn tin vào những điều đã nói đến trong Thánh kinh”.

“Tôi đoán, cô là người theo chủ nghĩa nguyên giáo (Fundamentalist)”.

Nhưng cô Brinklow xem ra không hiểu ý nghĩa của từ này. “Tôi từng tham gia hiệp hội giáo sĩ truyền giáo London”, cô nói nhỏ, “Nhưng tôi không tán thành những lý luận làm lễ rửa tội cho trẻ sơ sinh của họ”.

Conway luôn cảm thấy cuộc tranh luận này rất buồn cười. Rồi cậu nhớ lại những rắc rối trong cuộc biện luận về thần học tổ chức ở ga Aston London, và cậu bắt đầu cảm thấy cô gái Brinklow có chút gì đó hấp dẫn cậu. Cậu thậm chí đang nghĩ rằng đêm đến có cần phải khoác thêm áo cho cô không, nhưng cuối cùng cậu nghĩ rằng cơ thể cô có lẽ còn khỏe mạnh hơn mình nên từ bỏ ý định. Thế là cậu co người, nhắm mắt và đi vào giấc ngủ rất nhanh.

Họ tiếp tục bay về phía trước.

Bỗng nhiên, máy bay rung động nghiêng về một phía làm mọi người bừng tỉnh. Đầu Conway liên tục đập vào cửa sổ, làm cậu ta bị hoa mắt chóng mặt. Thân máy bay đột ngột nghiêng sang phía bên kia, làm họ rất khó khăn để giữ được thăng bằng giữa hai hàng ghế. Không khí lạnh hơn nhiều. Theo bản năng, việc đầu tiên Conway làm là xem đồng hồ, đã 1giờ 30 phút, cậu chắc chắn đã ngủ được một lúc. Tai cậu ù lên vì tiếng động cơ ngoài cánh máy bay, cậu vẫn cho rằng đó là ảo giác, cho đến khi cậu ý thức được motor của máy bay đã ngừng vận hành, máy bay đang trượt trong gió. Cậu nhìn ra ngoài cửa sổ, trong nghiêng ngả có thể mơ hồ nhìn thấy mặt đất đen xám đã ở rất gần. “Hắn muốn hạ cánh!” Mallison kêu to. Barnard đã bị bắn ra khỏi chỗ ngồi của mình rên rỉ: “Nếu hắn may mắn”. Toàn bộ quá trình rối loạn này hình như làm quấy rầy rất ít đến cô Brinklow, cô đang sửa lại chiếc mũ, bình tĩnh như Dover Harbor đang ở trước mặt.

Máy bay sắp hạ cánh, nhưng lần hạ cánh này rất tồi tệ - “Ôi, mẹ kiếp, mẹ kiếp!” Mallison vừa lẩm bẩm vừa bám chặt vào ghế ngồi, máy bay rung lắc khoảng 10 giây, tiếng ma sát mạnh và tiếng gãy do va đập, tiếp đó là tiếng nổ lớn, một bánh máy bay đã bị nổ. “Đã hạ cánh rồi”, Mallison ủ rũ, “Đuôi cánh gãy rồi, chúng ta bây giờ chỉ có thể ở đây, không đi đâu được nữa, chắc chắn là như vậy”.

Conway không nói nhiều trong những lúc nguy cấp, cậu duỗi đôi chân rắn chắc, sờ lên chỗ bị va đập vào cửa kính trên đầu. Một cục u nổi lên, không có trở ngại lớn. Cậu cảm thấy phải làm gì đó để giúp đỡ những người này. Nhưng sau khi máy bay dừng hẳn, cậu là người đứng dậy cuối cùng trong số bốn người. “Cẩn thận chút!” - Conway kêu lên khi Mallison chuẩn bị mở cánh cửa khoang để nhảy xuống đất. Sau một lúc im lặng đáng sợ, tiếng cậu thanh niên vang lên: “Không phải lo đâu, ở đây xem ra giống như nơi tận cùng của thế giới - đến bóng quỷ cũng không có đâu”.

Một lúc sau, khi họ đều run rẩy vì lạnh cóng thì mới ý thức được tình hình thực sự như vậy. Chỉ có thể nghe thấy từng cơn gió thổi rất mạnh bên tai và tiếng từng bước chân của họ. Họ cảm thấy mình đang bước vào một nơi lạnh lẽo và âm u không bút nào tả được, sự trầm cảm đó che phủ và thấm sâu vào mọi thứ quanh đó. Trăng đã bị mây che khuất, gió thổi từng cơn, ánh trăng mờ soi chiếu sự trống trải tĩnh mịch đáng sợ. Không cần phải nghĩ nhiều, bất kỳ ai cũng đều có thể nhận thấy địa thế núi cao trùng điệp của nơi lạnh lẽo hoang vu này. Những đỉnh núi nhấp nhô tít tận đường chân trời xa xa vẫn thoáng lấp lánh ánh sáng như một chiếc răng chó nhọn hoắt.

Mallison có chút phấn chấn đã không kìm lại được, anh ta đi vội về phía khoang lái máy bay. “Cho dù cái gã này là ai, ở trên mặt đất thì tôi không sợ hắn nữa”, Anh ta gào lên, “Tôi sẽ lập tức bắt hắn lại...”

Những người khác lo lắng nhìn theo anh ta, và không biết làm thế nào trước hành động kích động này. Conway vội lao về phía trước, nhưng đã không kịp ngăn anh ta lại. Nhưng vài giây sau, chàng thanh niên này đã ra khỏi buồng lái, anh ta giữ chặt cánh tay của mình, lắp bắp điều gì đó, rồi mới tiếp tục nói: “Tôi nói này, Conway, quá kỳ lạ.....tôi nghĩ thằng cha này có thể bị ốm rồi, hoặc đã chết rồi, hoặc là gì đó...tôi nói gì hắn cũng không trả lời. Lại xem đi...ít nhất, tôi đã lấy khẩu súng ngắn của hắn”.

“Tốt nhất là đưa súng cho tôi”. Conway nói, cho dù cú va đập lúc nãy vẫn làm cậu hơi choáng, nhưng cậu vẫn có thể kiểm soát được hành động của bản thân. Cho dù là thời gian, địa điểm hay tình thế lúc đó, đối với cậu hình như mọi sự khốn khổ khó chịu nhất đều tập trung lại. Cậu cố trèo lên một vị trí có thể nhìn được vào trong buồng lái, nhưng nhìn không được rõ. Một luồng mùi xăng xộc vào mũi nên cậu không dám mạo hiểm đánh diêm. Cậu chỉ có thể thấp thoáng thấy cơ thể của gã phi hành gia đó cuộn tròn về phía trước, đầu gục trên cần lái. Conway lay người hắn, gỡ chiếc mũ trên đầu hắn và mở nút khuy áo cổ. Một lát sau, cậu xoay người lại và nói với mọi người: “Không sai, hắn đã xảy ra chuyện rồi. Chúng ta phải lôi hắn ra”. Những người còn lại cũng đều nhận thấy Conway cũng gặp phải chuyện gì đó. Tiếng nói của cậu ta sắc lạnh, thậm chí có chút chói tai, cậu ta gần như không còn băn khoăn lo lắng, không còn do dự nữa. Thời gian, địa điểm, cái lạnh thấu xương, sự mệt mỏi của cậu, lúc này cậu đã không còn chút tính toán nào nữa. Chỉ có một việc duy nhất cậu phải làm, cậu đã quen gánh vác vai trò quan trọng nhất, và đang chuẩn bị tiếp tục gánh vác.

Dưới sự hỗ trợ của Barnard và Mallison, Conway lôi được gã phi hành gia ra khỏi ghế, sau đó đặt hắn xuống đất. Hắn hôn mê, nhưng chưa chết. Conway tuy không hiểu về chăm sóc y tế đặc biệt, nhưng cũng khá quen với chứng bệnh của phần lớn những người bôn ba khắp nơi như thế này. “Có lẽ là bệnh tim do độ cao”, cậu vừa xem xét người đàn ông lạ mặt vừa chẩn đoán, “Ở đây, chúng ta không cứu được hắn, không có nơi nào trốn tránh được cơn gió đáng chết này. Tốt nhất chúng ta đưa hắn vào khoang máy bay, chúng ta cũng vào bên trong đi. Chúng ta không biết được hiện đang ở đâu, trước khi trời sáng thì không có hy vọng gì rời khỏi đây rồi”.

Mọi người đều đồng ý và chấp nhận đề nghị của Conway, đến Mallison cũng không phản đối. Họ đưa gã đó vào khoang máy bay, để hắn nằm thẳng trên lối đi giữa hai hàng ghế. Trong khoang máy bay cũng không ấm hơn bên ngoài bao nhiêu, nhưng dù sao cũng ngăn được những cơn gió lạnh thấu xương. Không lâu sau, cơn gió này đã trở thành vấn đề mà những con người đang trong lúc nguy cấp cần phải ứng phó - nó đã trở thành tâm điểm của một đêm lạnh lẽo và buồn bã. Đó không phải là những cơn gió thông thường, nó vừa mạnh vừa lạnh, nó giống như một cơn điên cuồng bạo cuốn lấy họ không ngừng, nó lại giống như một kẻ thống trị tung hoành trong lãnh địa của mình. Trận cuồng phong này cuốn vào cánh trên của chiếc máy bay nặng nề làm lắc lư cả máy bay. Conway nhìn ra ngoài cửa sổ, cơn cuồng phong hình như đã cuốn đi hết các vì sao lấp lánh.

Gã lạ mặt nằm đó không động đậy, trong khoang máy bay tối tăm và chật hẹp, Conway chỉ có thể quẹt diêm, cố gắng kiểm tra tình hình trong ánh sáng yếu ớt, nhưng cũng không lần ra được đầu mối gì. “Nhịp tim của hắn rất yếu”. Cuối cùng cậu cũng cất lời. Cô Brinklow có một chút phản ứng, lần mò trong chiếc túi xách tay một lát và lấy ra một món đồ. “Tôi không biết thứ này có giúp được gì cho con người đáng thương này không”, cô nói một cách rụt rè, “Bản thân tôi không uống một giọt rượu nào, nhưng để đề phòng bất trắc, tôi vẫn luôn mang theo nó, ví như trong trường hợp này, có phải không?”

 

Bản dịch riêng cho www.luyendichtiengtrung.com